Lớn lên giữa lúc quê hương đang có phong trào cách mạng sôi động, quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược giải phóng quê hương, được các anh chị hoạt động cách mạng giáo dục, hiểu thêm về nguồn gốc sự nghèo khổ của người dân lao động, từ lòng căm thù sự bất công trong cảnh đời nô lệ, cô đến với cách mạng ở cái tuổi trăng tròn 16.
Cô là Đỗ Thị Năm - người mà người dân địa phương và đồng đội thường gọi bằng cái tên thân mật Năm Thắng - sinh năm 1949, hiện đang cư ngụ tại ấp Phú Lợi (xã Lục Sĩ Thành - Trà Ôn). Xuất thân trong một gia đình cố nông, cô không được đi học như bao thanh thiếu niên cùng trang lứa khác. Nhà nghèo, cô sớm phải đi làm thuê, làm mướn để giúp đỡ gia đình. Cô kể lại: “Tuổi thơ của tôi từng chứng kiến bao cảnh áp bức bất công của bọn nhà giàu, cảnh bọn lính ruồng bố, bắt bớ, đánh đập tù đày những người làm cách mạng… Những điều ấy đã gây cho tôi một ấn tượng sâu sắc”.
Tháng 4/1965, cô được phân công làm giao liên cho xã Lục Sĩ Thành. Tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và ý thức chấp hành kỷ luật đã làm cho cô gái Đỗ Thị Năm thêm dạn dày trong công việc, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được tổ chức phân công.
Đầu năm 1968, cô xây dựng gia đình với anh Phan Văn Thành - một chiến sĩ du kích xã đội Lục Sĩ Thành. Tình yêu và hôn nhân được ươm mầm từ trong cuộc chiến tranh máu lửa, khi cô đang mang thai đứa con đầu lòng thì tháng 9/1968 trong một chuyến công tác, địch bắt được cô, đưa về giam tại nhà tù Vĩnh Long. Một năm ở trong tù chịu nhiều đòn roi tra tấn của địch, nhưng cô nhất quyết không khai báo. Đứa con đầu lòng và cũng là đứa con duy nhất của cô đã ra đời trong lao tù.
Đến tháng 10/1969, địch thả mẹ con cô. Ra tù, do con còn nhỏ, sức khỏe còn yếu, gia đình đơn chiếc (cha chết, mẹ quá yếu, chồng đi hoạt động cách mạng) nên cô chưa thoát ly được mà phải ở lại lo cho gia đình.
Rồi bà mẹ trẻ nhận được hung tin, trong một trận chiến đấu năm 1970 chồng cô đã hy sinh. Đau thương vì mất chồng, căm thù vì Mỹ ngụy đang đốt phá quê hương, không thể ngồi yên, cô bồng bế đứa con chưa tròn 1 tuổi trở lại công tác.
Tháng 1/1971, cô được tổ chức đưa đi học lớp y tá. 9 tháng sau, cô trở về công tác tại xã nhà. Cấp ủy xã đưa cô đi hoạt động công khai nhưng cô xin vào hoạt động bí mật ở trong căn cứ. Năm 1972, cô được điều về làm y tá ở Hội Vận tải Ban Hậu cần tỉnh Vĩnh Long. Theo yêu cầu nhiệm vụ, tháng 8/1972, cô được chuyển sang làm Đội trưởng đội vận tải với nhiệm vụ chuyển vũ khí bán công khai trên đường sông thuộc đơn vị vận tải Ban Hậu cần tỉnh Vĩnh Long. Đây là một nhiệm vụ đầy khó khăn gian khổ và nguy hiểm nhưng với quyết tâm của người chiến sĩ, cô đã chấp nhận và bắt tay ngay vào nhiệm vụ.
Để thực hiện công việc chuyển vũ khí, cấp trên giao cô phụ trách một chiếc ghe có gắn máy trọng tải khoảng 2 tấn, không mui. Cùng đi với cô là đứa con nhỏ và một đồng chí nữ cải trang làm người đi mua bán trên sông để che mắt địch. Tuyến vận chuyển của cô phải đi qua rất nhiều đồn bót địch, nhiều căn cứ và bọn tuần tra kiểm soát trên sông.
Trên tuyến sông Trà Ôn, cô luôn phải đối phó với đủ mọi loại tình huống phức tạp bởi vì đây là địa phương nhiều người biết cô. Bọn chiêu hồi muốn lập công luôn rình rập khắp nơi chúng nghi ngờ. Có lần ghe cô chạy ngang thì chúng kêu lại. Sợ bị lộ gây thiệt hại cả người lẫn vũ khí, cô bình tĩnh tăng tốc độ cho ghe vọt luôn. Địch dùng đại liên bắn theo dữ dội nhưng cô đã thoát và đưa vũ khí về đến nơi tập kết an toàn.
Năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết, song với bản chất hiếu chiến ngoan cố, địch vẫn tiến hành nhiều cuộc bình định, lấn chiếm với quy mô lớn nhằm phá hoại hiệp định. Tình hình Vĩnh Long rất căng thẳng, Quân khu 9 chuyển hướng đi nhận vũ khí ở tỉnh Kiến Phong (nay là tỉnh Đồng Tháp )- nơi mà từ nhỏ đến lớn cô chưa hề đặt chân đến. Để thực hiện nhiệm vụ, có khi cô đi từ 4 giờ sáng đến 4 giờ chiều mới tới nơi, vì phải vòng vo để tránh sự kiểm soát của địch. Nhiều lần cô phải nhịn đói, mưa gió gây trở ngại nhưng những chuyến hàng chở vũ khí do cô phụ trách vẫn luôn cập bến an toàn.
Năm 1974, trong chuyến đi công tác ở Cái Vồn (Bình Minh), cô gặp bọn lính tuần tra, trong số này có tên biết cô nên đã bắt và khảo tra cô rất tàn bạo. Một tuần lễ bị bắt giam, chúng không khai thác được gì, không có cơ sở để giam giữ, chúng buộc phải thả cô.
Năm 1973, cô được tặng danh hiệu Chiến sĩ quyết thắng cấp quân khu. Ngày 30/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất. Cô vẫn tiếp tục công tác ở Ban Hậu cần tỉnh Vĩnh Long. Cũng trong năm này, cô được đứng vào hàng ngũ của Đảng (1/5/1975).
Thời gian sau đó, cô về công tác tại Tỉnh Đội Cửu Long. Năm 1977, là y tá Tiểu đoàn 2. Năm 1978, công tác tại Phòng Chính trị Tỉnh Đội cho đến khi được nghỉ.
Cuộc đời cô Năm đã trải qua bao nỗi gian truân nhưng với bản lĩnh vững vàng, kiên định, cô đã vượt qua tất cả. Hiện nay, cô đang nghỉ hưu tại xã Lục Sĩ Thành. Gia đình cô luôn phát huy truyền thống là một gia đình liệt sĩ tiêu biểu, tiếp tục đóng góp nhiều công sức cho công cuộc kiến thiết quê hương.
Cô đã lập nên những chiến công xuất sắc và được khen thưởng: Huân chương Chiến công hạng nhất, nhì, ba; Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì; Huy hiệu Chiến sĩ thành đồng Quyết thắng năm 1972. Ngày 6/11/1978, Chủ tịch nước đã tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang cho cô.