Sơ kết 3 năm: Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ở 15 tỉnh miền núi phía Bắc.

 9292 lượt xem
(BTĐKT)- Ngày 24/9, tại Lào Cai đã tiến hành hội nghị sơ kết ba năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới ở 15 tỉnh miền núi phía Bắc do Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới chủ trì. 

Theo Bộ NNPTNT, 15 tỉnh miền núi phía Bắc đã hình thành càng rõ nét hơn một số vùng cây hàng hóa tập trung, chiếm tỷ trọng khá so với toàn quốc (chè 65,7%, cây ăn quả 23%, ngô 36%).

Về chăn nuôi thì trâu có 1,56 triệu con (58% cả nước), đàn bò có 0,9 triệu con (17%), đàn dê có 0,53 triệu con (43%). Đối với lâm nghiệp, toàn vùng có sản lượng gỗ khai thác bằng 30% cả nước…
 
Các tỉnh miền núi phía Bắc được đánh giá cao là nơi bảo tồn hiệu quả văn hóa truyền thống của bà con dân tộc ít người, hệ thống chính trị cơ sở được củng cố, kiện toàn một bước sau 3 năm thực hiện NTM…
 
Tổng vốn huy động cho nông thôn mới của toàn vùng là 92.172 tỷ đồng trong đó vốn ngân sách là 65%, vốn nhân dân góp là 3,8%, còn lại là vốn tín dụng và vốn do doanh nghiệp đóng góp.
 
Sau 3 năm thực hiện nông thôn mới, đời sống người dân được cải thiện hơn, thu nhập bình quân tăng 35%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 7% so với trước.
 
Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ NNPTNT Cao Đức Phát cũng đánh giá tiến độ xây dựng NTM tại các tỉnh miền núi phía Bắc còn chậm so với tiến độ chung của cả nước.
Theo Bộ trưởng Cao Đức Phát, tiến độ chậm này là do tính đặc thù trong điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của các địa phương. Do đó, Hội nghị sơ kết này là dịp để Ban Chỉ đạo Trung ương nhìn lại 3 năm thực hiện Chương trình tại các tỉnh này, đồng thời kiến nghị các cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy hiệu quả chương trình tại đây, làm nền tảng để thay đổi, nâng cao đời sống của địa phương.
 
Tính “đặc thù” được nêu lên ở đây là diện tích mỗi tỉnh rất lớn, tài liệu đo đạc, khảo sát gốc phần lớn là thiếu nên ảnh hưởng tới quy hoạch, địa hình hiểm trở gây khó cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển kinh tế-xã hội và giao thương, sản xuất trong vùng. Từ đó dẫn đến khả năng đóng góp của cộng đồng dân cư thấp (tỷ lệ hộ nghèo cao), điều kiện hỗ trợ từ ngân sách có hạn.
 
Dân cư miền núi phía Bắc sinh sống phân tán, trình độ dân trí thấp, nhiều tập tục lạc hậu, nặng nề cũng ảnh hưởng tới việc xây dựng nông thôn mới.
 
Bộ NNPTNT cho rằng để xây dựng nông thôn mới ở miền núi phía Bắc đạt hiệu quả thì Chính phủ cần có chính sách đặc thù để phát triển hạ tầng thiết yếu và phát triển nông lâm nghiệp. Cụ thể, ngân sách hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng trục giao thông xã, 70-80% trục giao thông thôn bản và liên xóm (hỗ trợ toàn bộ xi măng, cống dân sinh, chi phí tư vấn nếu có…).
 
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh ghi nhận những kết quả đạt được của các tỉnh miền núi phía Bắc trong thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới. Phó Thủ tướng nhấn mạnh các tỉnh miền núi phía Bắc cần “đột phá” mạnh về phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho cư dân nông thôn. Căn cứ vào qui hoạch của huyện, các xã điều chỉnh, bổ sung qui hoạch sản xuất của xã, bảo đảm tính kết nối vùng. Phó Thủ tướng yêu cầu, các tỉnh miền núi phía Bắc cần chủ động, sáng tạo trong lựa chọn cách làm để thực hiện các tiêu chí nông thôn mới, cần làm đến đâu chắc đến đó, đến tận thôn, bản; không chạy theo thành tích, kém bền vững. 
 
Hội nghị đã tập trung thảo luận và đề xuất các chính sách phù hợp, gỡ những “nút thắt” còn vướng mắc trong quá trình xây dựng nông thôn mới; đề ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc. 
 
Hội nghị cũng xác định cần khẩn trương xây dựng đề án tái cơ cấu nông- lâm- ngư nghiệp cho khu vực miền núi phía Bắc, trong đó tập trung vào khâu quy hoạch, xác định rõ các vùng nông sản hàng hóa chủ lực cho khu vực và cho từng huyện. Quy hoạch sản xuất sẽ gắn liền với quy hoạch hạ tầng (giao thông, điện, thủy lợi, công nghiệp chế biến…) và chương trình khoa học phục vụ nông nghiệp. Căn cứ vào quy hoạch của huyện, các xã điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sản xuất của xã, bảo đảm tính kết nối vùng. 
 
Là một trong ít địa phương đến nay đã có bốn xã hoàn thành cơ bản 19 tiêu chí nông thôn mới, tỉnh Lào Cai đề xuất cách làm, đó là coi đề án xây dựng nông thôn mới là chương trình khung, lấy các tiêu chí xây dựng nông thôn mới làm chuẩn để tất cả các chương trình, dự án đầu tư vào khu vực nông thôn được đồng bộ và thống nhất. Coi đây là cơ sở để lồng ghép các nguồn lực đầu tư vào khu vực nông thôn (nguồn các chương trình mục tiêu quốc gia, nguồn ngân sách địa phương, nguồn xã hội hóa đóng góp từ các doanh nghiệp và người dân). Với cách làm như vậy, năm 2013, Lào Cai đã huy động được 1.728 tỷ đồng phục vụ cho Chương trình xây dựng nông thôn mới, trong khi ngân sách Trung ương phân bổ có hạn. 
 
Để nâng cao hiệu quả các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn, các đại biểu đề xuất Nhà nước cần sớm ban hành hướng dẫn cụ thể hóa chính sách khuyến khích liên kết sản xuất- chế biến- tiêu thụ, xây dựng “cánh đồng lớn”. Cùng với xây dựng chính sách đặc thù cho doanh nghiệp đầu tư vào nông- lâm- ngư nghiệp để làm đầu tàu cho phát triển kinh tế - xã hội khu vực, cần tổng kết các hình thức giao khoán, bảo vệ rừng; đồng thời bổ sung các chính sách, giải pháp bảo đảm cho người dân làm giàu từ rừng. Đưa cán bộ khuyến nông xuống “ba cùng” tại địa bàn thôn, bản gắn với việc thực hiện dự án nông nghiệp tại địa bàn. 
 
Qua ba năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, các tỉnh miền núi phía Bắc đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Đời sống người dân nông thôn được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm 7% so với trước. Tuy nhiên, quy hoạch sản xuất nông nghiệp chưa gắn với đầu tư tương thích nên sản xuất hàng hóa của khu vực vẫn còn rất khó khăn và chậm phát triển; năng suất cây trồng, vật nuôi còn thấp, sản xuất phổ biến còn lạc hậu, rất ít nông sản có thương hiệu. Vì vậy, tổng giá trị sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp của 15 tỉnh miền núi phía Bắc mới chỉ chiếm 9,2% so với cả nước, thu nhập đầu người vùng nông thôn của các tỉnh này chỉ tăng 3,5%, bằng 64,6% mức thu nhập bình quân chung cả nước./. 
 
 
 Nhật Minh
 
Ý kiến của bạn