LÀM GIÀU BẰNG DÒNG “VÀNG TRẮNG”

 9175 lượt xem
(BTĐKT) -Trên vùng ngã ba biên giới Việt – Lào – Campuchia thuộc tỉnh KonTum có trang trại cao su xanh thẳm giữa buôn làng của người Xơ Đăng. Đấy là tài sản của nhà ông A Xem, mỗi ngày thu về trên 6 triệu đồng từ tiền bán mủ cao su. Trừ chi phí thì mỗi ngày, A Xem cũng có lãi khoảng 5 triệu đồng. Đứng giữa vườn cao su đang cho những dòng nhựa trắng, A Xem nhẩm tính: “Doanh thu mỗi tháng của gia đình tôi khoảng 180 triệu đồng, trừ các chi phí thuê mướn, mỗi tháng tiền lãi thu về là 150 triệu đồng”. 

Sau giải phóng năm 1975, ông khoác ba lô dẫn con trai đầu, bà cõng một bé gái về làng Đăk Xú. Đặt ba lô xuống ông nói với bà: “Ta làm nhà ở đây thôi”. Và đến hôm nay, hơn 35 năm đã qua đi, chính mảnh đất này đã trở thành ngôi nhà hạnh phúc của ông bà và các con, nơi “dòng nhựa trắng” hàng ngày tuôn trào những sản phẩm, mang lại cuộc sống mới, cuộc sống của những con người tiên phong đi mở đất.

Có lẽ ở Tây Nguyên này, số người có thu nhập tiền tỷ như A Xem quả là rất ít. Năm nay 58 tuổi, ông là người dân tộc Xơ Đăng. Theo cách mạng từ nhỏ giữa núi rừng biên giới thuộc xã Đăk Xú – huyện Ngọc Hồi. 19 tuổi ông đã được kết nạp Đảng. Hiện nay ông là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận tổ quốc huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum.
 
Người đảng viên hơn 40 năm tuổi Đảng này đã gần trọn cuộc đời gắn bó, bám làng, bám đất rừng biên giới vừa công tác vừa làm kinh tế gia đình. Trải qua những biến cố thăng trầm có lúc tưởng chừng phải bỏ cuộc, nhưng với khát vọng vượt qua nghèo khó của một đảng viên suốt cuộc đời gắn bó với buôn làng, ông cùng với gia đình đã khai mở những vùng đất rừng hoang hóa để đưa cây cao su về trồng tên vùng đất mới thuộc xã Đăk Xú – huyện Ngọc Hồi. Đến hôm nay gia đình ông A Xem đã có 20 ha cao su, trong đó 18 ha đã cho thu hoạch.
 
Ông bồi hồi nhớ lại, năm 1994, lúc ấy tôi bắt đầu muốn trồng cao su nhưng không có vốn. Mà ngày ấy ở Ngọc Hồi cũng chưa có ngân hàng, cả huyện lại chưa có ai trồng cao su. Đất rừng thì mênh mong nhưng cây cỏ, đất đồi cao thâm u. Máy cày, máy ủi không có, lao động cũng không vì người dân ở đây không ai đi làm thuê, việc nhà ai người ấy làm. Nói tóm lại là rừng núi hoang vu, dân cư thưa thớt, cuộc sống vất vả, thiếu thốn…
 
Buổi đầu gian nan ấy, cả gia đình phải gồng sức mà bạt đồi, phát cỏ, khai phá đất rừng. Có lúc ông phải hợp đồng với anh em bộ đội đứng chân quanh vùng để dọn đất, đào hố, gánh phân, ông phải bán hết tài sản, rồi bán luôn cả đàn bò là cơ nghiệp lớn nhất của gia đình để đắp đổi lấy vốn. Cây cao su được ông đưa về trồng lúc ấy, nhiều người ngơ ngác, có người còn cho ông là không bình thường, sao lại trồng cái cây mà không ai biết thế này! Ông bảo tôi phải mất nhiều thời gian để tuyên truyền, giới thiệu cho bà con về lợi ích kinh tế của cây cao su. Nhưng nói mãi mà ít người chịu hiểu hoặc có biết thì người ta cũng le lưỡi lắc đầu.
Từ ít đến nhiều. Những cây cao su của A Xem đầu tiên trên đất đồi rừng vùng biên giới Đăk Xú đã bật dậy những chồi xanh, vươn cao trỗi dậy từng ngày. Lúc này ở gần đấy đã có nông trường cao su Plei Kần. Ông đến gặp anh em kỹ thuật của nông trường với hy vọng được hậu thuẫn, giúp đỡ về kỹ thuật chăm sóc và chuẩn bị khai thác những dòng nhựa đầu tiên. Giám đốc nông trường cao su Plei Kần Vũ Bá Văn cho biết: “Chúng tôi đã sát cánh với gia đình bác A Xem, giúp bác việc chăm sóc vườn cây, cho cán bộ kỹ thuật hướng dẫn tỉ mỉ cách khai thác những sản phẩm đầu tiên”.
 
Từ năm 1994 đến năm 2003, tức là khoảng 10 năm, A Xem dồn hết sức người, sức của để khai phá đất hoang, bạt núi, mở đường, khoanh lô, cắm tiêu… để trồng được 20 ha, tính ra số cây là 11.000 cây. Hiện nay có 18 ha tương đương 10.000 cây đã cho khai thác. Rừng cao su bạt ngàn xanh trên đất rừng biên giới là thành quả lao động hơn 15 năm của “người đảng viên đi trước” đưa cây cao su sâu rễ, bền gốc nơi ngã ba biên giới Ngọc Hồi.
 
Ông tâm sự: “Mình là đảng viên mà lại là người dân tộc thiểu số, mình nghĩ phải làm là mình làm thật. Dù có người không ủng hộ”. Vấn đề mình trăn trở hiện nay là làm sao có nhiều hơn nữa bà con các dân tộc Xơ Đăng, Giẻ Triêng, người Tày, người Mường ở tỉnh Hòa Bình vào đây làm ăn cũng biết trồng cao su để bà con giàu lên”.
 
Sau khi thăm vườn cây cao su, A Xem đưa chúng tôi vào nhà ở ngay đầu lô cao su. Vừa bước vào nhà, bà Y Nia – vợ ông đon đả mời khách rồi nhanh tay bật công tắc chiếc máy lạnh ở phòng khách rồi mở tủ lấy bia đãi khách. Cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy toát lên gương mặt thuần hậu của người phụ nữ Xơ Đăng đã quanh năm gắn bó với đất rừng Đăk Xú. Bà nguyên là thiếu úy Quân đội trong những ngày đánh Mỹ gian khổ và đã gặp ông ở huyện ủy Sa Thầy. Hai người nên nghĩa vợ chồng trong khói lửa chiến tranh. Bà sinh cho ông 1 trai 3 gái.
 
Bà Y Nia rót bia mời khách và “ra lệnh” cho chúng tôi trăm phần trăm. Bà khoe: “Thằng trai đầu đang dạy cấp 3 trường huyện, con gái thứ 2 đã làm việc tại UBND xã Đăk Xú, con gái thứ 3 đang học Đại học Tây Nguyên, còn gái út gần tốt nghiệp Học viện Quân y rồi”. Chúng tôi chúc mừng ông bà rồi nhìn ra ngoài sân, chiếc ô tô con màu sáng còn  rất mới chạy vào cổng. Bà cho biết đó là con trai của bà, thằng Thao Nuông đi làm về. Xe mới mua trên 500 triệu đồng, gia đình cũng vừa mua 2 xe tải trị giá trên 1 tỷ đồng để phục vụ cho sản xuất. Chúng tôi ước tính tài sản của gia đình ông A Xem cũng phải trên 20 tỷ đồng. Đấy là tài sản nhìn thấy được, chứ “của chìm” của gia đình là bao nhiều thì gặng mãi, A Xem chỉ cười…
 
Chia tay A Xem giữa vườn cao su đang hối hả cho những dòng nhựa trắng xây đời, trời Tây Nguyên trong xanh, nắng vàng rực rỡ, tôi ôm lấy ông vì quá đỗi cảm phục bản lĩnh, trí tuệ và lòng quả cảm của con người này. Xiết chặt lấy tay tôi, trong ánh mắt người đảng viên 40 năm tuổi Đảng này như chưa đựng một tình yêu quê hương bao la, ánh lên niềm tin về cuộc đổi đời đã và đang đến với bà con đồng bào các dân tộc nơi vùng quê biên giới.
 
 Nguyễn Văn Chiến
 
Ý kiến của bạn