(BTĐKT) - Khi màn đêm buông xuống, cả vùng chân núi Chư Prông, tỉnh Gia Lai sáng như một trời sao. Ánh điện lung linh huyền ảo, quyện với âm thanh rộn rã từ những dãy nhà cao tầng ở thị trấn biên giới này gợi cảm giác như đang sống ở một nơi phồn hoa đô hội. Người ta không biết rằng, chính nơi đây hơn 35 năm trước là vùng đất hoang tàn của chiến tranh để lại.
Qúa khứ gian nan
Chư Prông là một huyện biên giới của tỉnh Gia Lai giáp với Campuchia. Đây là dải đất rộng 170 ngàn ha, nằm dưới đỉnh Chư Prông lộng gió đã cho huyện mang tên ngọn núi. Xưa, những cánh rừng bạt ngàn dưới chân núi Chư Prông và dòng Ia Đrăng đã bị tàn phá bởi bom cày, đạn xới trở thành vùng đất trống đồi trọc, hoang vu vắng bóng người.
Ông Phan Sĩ Bình – Tổng giám đốc công ty cao su Chư Prông nhớ lại, đầu năm 1977, theo thỏa thuận giữa hai tỉnh cũ là Gia Lai – Kon Tum và Hà Nam Ninh, vài chục cán bộ, công nhân của nông trường Đồng Giao (Ninh Bình) đi tiền trạm để xây dựng vùng kinh tế mới; sau đó là gần 4000 con người từ các tỉnh Nam Định, Ninh Bình và Hà Nam vào theo. Họ rời quê hương mưu cầu một cuộc sống mới no đủ hơn. Nhưng rừng núi hoang vu, vắt muỗi và bom mìn của chiến tranh để lại… đã làm cho nhiều người nản chí, chỉ còn vài trăm người bám trụ. Chị Phạm Thị Na, đến đây từ khi mới 16 tuổi, bây giờ đã là đội trưởng đội sản xuất số 10, nông trường Thống Nhất bồi hồi: “Khó khăn, gian khổ quá, nhất là chứng kiến những cái chết thương tâm do khai hoang giẫm đạp phải bom mìn.” Rồi chị khóc thành tiếng: “Tôi cũng suýt nữa thì bỏ về. Không ngờ đến hôm nay, cuộc đời tôi đã thay đổi cũng nhờ chính vùng đất gian khó này”…
Những công nhân ở nông trường Đồng Giao, những người chỉ quen với cây lúa và hoa màu nay phải quay quắt với việc trồng cây cao su nên lúng túng, bỡ ngỡ, nhiều người tỏ ra chán chường, bỏ cuộc… Nông trường cao su Chư Prông đã được thành lập giữa năm 1977 và sau đó hơn 2000 ha cao su mới trồng đã phải thanh lý một nửa vì không phát triển được. Sự thật phũ phàng, công nhân xao xác kẻ ở người đi lang bạt kiếm sống. Nhưng như lời ông Mai Khắc Tuấn – Trưởng phòng tổ chức cán bộ của công ty tâm sự: “Dù gian khổ đến mấy và còn rất ít người ở lại, chúng tôi vẫn vững vàng trụ lại, bám đất bám rừng để trồng cây cao su như Nghị quyết của Chi bộ đã xác định”.
Xanh lại miền rừng
Ông Lương Văn Quý – Phó Bí thư đảng ủy công ty nhắc lại câu thành ngữ: “Trong cái khó ló cái khôn” và đúng như vậy. Huy động mọi nguồn lực, công ty đã huy động vốn, sức lao động nhàn rỗi của người dân, kẻ góp công, người góp của để phát triển nguồn cao su gia đình; thực hiện đúng quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc vườn cây, quản lý kinh tế chặt chẽ và khoa học. Đơn vị đã chuyển bại thành thắng, lấy lại niềm tin cho người lao động.
Cuộc đấu tranh giữa con người và thiên nhiên, giữa cung cách làm ăn cũ và mới, giữa trì trệ và tiến thủ… đã mang về cho công ty cao su Chư Prông luồng gió mới. Vẫn những con người ấy, nhưng trái tim và khối óc thì luôn khát khao cho rừng biên giới đổi thay. Những biến cố, thăng trầm ở vùng đất này nay đã tươi non, xanh thẳm của cao su bạt ngàn. Trên 30 năm- sức của con người kỳ diệu quá. Gần 2000 cán bộ công nhân của 9.000 ha cao su trải dài dọc miền biên giới, gần 500 ha cà phê với 5 nông trường: Thống Nhất, Thanh Bình, Đoàn Kết, Suối Mơ, Hòa Bình và nhiều xí nghiệp trực thuộc, trong đó có nhà máy chế biến mủ cao su công suất trên 7000 tấn/năm; 1 nhà máy chế biến phân hữu cơ vi sinh công suất 5000 tấn/năm.
Công ty luôn bảo tồn và phát triển được vốn sản xuất kinh doanh. Doanh thu năm 1997 có trên 24,4 tỷ đồng thì đến năm 2013 đạt trên 1000 tỷ đồng; lợi nhuận đạt trên 300 tỷ đồng; nộp ngân sách trên 100 tỷ đồng. Thu nhập bình quân của người lao động trong công ty trên 8 triệu đồng/người/tháng. Khi chúng tôi đến thăm gia đình chị Rơ Chăm Buk, chị nói: “Tôi là công nhân của công ty, làm cao su lúc này lương cao, thưởng lớn, thật là ưng cái bụng lắm!”. Tôi đã gặp những công nhân cạo mủ cao su giỏi mà vẫn thường gọi là “bàn tay vàng” như Hoàng Văn Đông, KBăh Bem, Rơ Mah Lớ, Nguyễn Huy Hoàng… của công ty, những gương mặt rạng ngời, toát lên một cuộc sống no đủ, ấm êm của những người đã xác định gắn bó trọn đời với nghề cao su ở nơi đây.
Bây giờ công ty cao su Chư Prông đã trở thành một vùng quê giàu có. Hàng ngàn ngôi nhà mới được xây cất theo kiểu hiện đại. Cơ sở hạ tầng với điện đường, trường, trạm và các dịch vụ thương mại hiện đại… được xếp vào loại bậc nhất so với các huyện ở Tây Nguyên. Chiều chiều khi mặt trời vừa xuống núi, mọi người thả bộ trên những con đường đất đỏ xanh thẳm cao su và thơm ngậy mùi hương trái chín của cà phê, lòng người cũng thêm thư thái. Trên mỗi gương mặt mà ta bắt gặp, dù người kinh hay người dân tộc thiểu số đều ánh lên niềm vui no đủ. Chiều về, sau một ngày lao động, những chàng trai, cô gái dân tộc Ja Rai, của các xã Ia Boòng, Ia Me, Ia Tô, Ia Băng rảo bước trên những con đường rộng mở, ánh mắt tràn đầy hạnh phúc vì họ đã cùng với công ty đón nhận danh hiệu cao quý: Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới.
Buôn làng ấm no rồi
Tổng giám đốc công ty Phạm Sĩ Bình khẳng định: “Ở địa bàn chiến lược và nhạy cảm như biên giới Chư Prông, việc đưa đồng bào dân tộc thiểu số vào làm công nhân cao su là đúng đắn và cần thiết”. Ngay từ năm 1984, công ty đã thu nhận hàng trăm người dân tộc Ja Rai ở các xã lân cận vào làm công nhân của công ty. Đến nay, công ty đã có gần 1000 công nhân là người Ja Rai ở 42 buôn của 11 xã trong huyện, chiếm 40% tổng số công nhân của công ty. Riêng ở nông trường Hòa Bình, có đến gần 92% công nhân là người Ja Rai, hoặc ở nông trường Suối Mơ, tỷ lệ này là 77%. Công ty đầu tư hàng chục tỷ đồng làm 100km đường cấp phối, 19km đường nhựa, 10km đường điện trung hạ thế, trung tâm y tế 30 giường bệnh rồi trường học từ thị trấn đến các buôn làng… cho bà con. Cho bà con vay không lãi để làm nhà kiến cố, ưu tiên về việc làm, định mức đầu tư, đơn giá tiền lương…rồi xóa mù chữ, bổ túc văn hóa từ lớp 1 đến lớ 5 cho trên 500 người Ja Rai ở các xã. Lương bình quân của công nhân người dân tộc thiểu số đạt gần 6 triệu đồng/người/tháng. Nhiều thợ giỏi cạo mủ như Kpả Hyol, Kpả Bem, Siu Lun, Kpuih Gan… và rất nhiều hộ đồng bào dân tộc ở công ty có thu nhập trên 100 triệu đồng/năm, cuộc sống rất khá giả. Còn chị Păh Bem do có nhiều thành tích trong lao động nên đã được công ty cho tham quan Trung Quốc và Malaixia thì không giấu được niềm vui và xúc động: “Cuộc đời em như một giấc mơ và giấc mơ đó đã trở thành sự thật”. Rồi đến giám đốc nông trường Suối Mơ là anh Kpă Thết hoặc như đội trưởng đội 13 là anh Kpă Hyơh tiếp xúc với chúng tôi cũng đều nghẹn lời vì công ty đã mang về cuộc đời mới cho gia đình họ nhanh quá, lớn quá. Trong số gần 1000 người dân tộc thiểu số được tuyển dụng vào làm công nhân, được giao khoán chăm sóc vườn cây, không chỉ đời sống được đảm bảo, vượt khỏi đói ngheo mà còn vươn lên làm giàu như vợ chồng trẻ Rơmah Bli và Siu Keng ở làng Klă, xã Chư Đrăng là một ví dụ. Với 3 ha cao su nhận khoán, thu nhập bình quân 2 triệu đồng/người/tháng, có những tháng thu đến 12 triệu đồng. Anh chị còn được công ty hỗ trợ trồng 800 cây cà phê, cấy 3 ha lúa nước, thu nhập mỗi năm trên 120 triệu đồng. Còn với anh Kpă Toa, 26 tuổi ở đội 4, nông trường Đoàn Kết khi được hỏi vì sao trở thành thợ cạo mủ giỏi thì anh nói: “Mình phải luôn mài con dao cho thật sắc, đi cạo đúng giờ, đúng kỹ thuật…” Anh khoe Tết năm ngoái được thưởng 15 triệu đồng. Theo Tổng giám đốc Phan Sĩ Bình, việc chuyển giao kỹ thuật cho người dân tộc thiểu số làm cao su chính là điều kiện và cơ hội cho bà con, về lâu dài sẽ trở thành một thế hệ công nhân mới – những người chủ thật sự để làm giàu ngay trên mảnh đất Chư Prông giàu truyền thống cách mạng của mình./.
Nguyễn Văn Chiến