Tham gia 175 trận đánh, không mong là … Anh hùng

 11194 lượt xem
(BTĐKT)-“Đánh giặc xong là về nhà thôi. Tôi không nghĩ mình sẽ là anh hùng”. Ông đã nói chân thành như vậy khi nhìn lại cuộc đời gần 30 năm binh nghiệp của mình. Ông đã tham gia 175 trận đánh, bắn rơi 13 máy bay, diệt 2 xe tăng và 54 tên địch. Ông là Nguyễn Văn Nhương, quê ở xã Cầu Lộc, huyện Hậu Lộc (Thanh Hóa), hiện ở tổ 8, đường Lý Thái Tổ, phường Diên Hồng, thành phố Pleiku. Ông đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân. 

Năm 1965, mới 17 tuổi,  nhưng Nguyễn Văn Nhương đã nộp đơn xin nhập ngũ với nội dung rất rõ ràng “Xin được cầm súng vào Nam giết giặc”. Ông nhớ lại, cả 2 lần khám tuyển, ông đều bị loại vì quá thấp bé, nhẹ cân. Nhưng với sự quyết tâm, cuối cùng ông cũng thuyết phục được Hội đồng khám tuyển. Sau 3 tháng huấn luyện, đầu năm 1966, Nguyễn Văn Nhương được biên chế về đại đội súng máy 12,7 ly của Đoàn Hoa Lư. Nhiệm vụ chính của đơn vị ông là bảo vệ các cây cầu ở quê hương Thanh Hóa, trong đó có cầu Hàm Rồng huyền thoại. Cho đến đầu năm 1967, ông cùng đơn vị hòa vào đoàn quân Nam tiến để bắt đầu chinh phục những trận đánh mới với cuộc chiến hào hùng của cả dân tộc.

Ông Nguyễn Văn Nhương.

Khi trò chuyện với chúng tôi, bao nhiêu ký ức của những trận đánh lại dội về. 175 trận đánh mà ông đã góp sức vào những chiến công chung của đồng đội. Nhưng có lẽ đậm sâu nhất, thể hiện sự dũng cảm, mưu trí nhất đã phác họa chân dung của vị anh hùng ngày hôm nay có lẽ là gần 40 ngày đêm của tháng 3 năm 1968 ở trận địa sân bay Tà Cơn (Quảng Trị). Ông kể: Trong chiến dịch đánh chiếm sân bay Tà Cơn, lúc đầu đơn vị bố trí khẩu đội pháo 12,7 ly cách sân bay 1000 mét. Qua thực tiễn những trận đánh trước đó, ông cho rằng nếu đặt xa như vậy sẽ không hiệu quả và chỉ bắn được những máy bay ở trên không nên ông đã đề xuất đưa pháo vào cách sân bay trên 100 mét. Đề xuất của ông được chỉ huy chấp nhận. Theo ông, nếu đặt sát đường băng thì khi máy bay lên cũng bắn được mà khi máy bay xuống cũng bắn được. Hiệu quả quá bất ngờ khi trận này, đơn vị của ông đã bắn rơi 17 chiếc máy bay trực thăng hiệu HU1A. Nguyễn Văn Nhương bắn rơi 7 chiếc, trong đó có 1 ngày ông bắn rơi 3 chiếc. Sau trận chiến này, toàn đơn vị đã phát động học tập, noi gương sự mưu trí, dũng cảm của chiến sĩ Nguyễn Văn Nhương. Tuy nhiên, đơn vị thiệt hại khá lớn về người và vũ khí. Anh em đơn vị bị thương nhiều nhưng ông vẫn bám trận địa. Với ông, phải giữ trọn lời thề trước Đảng kỳ khi ra trận là: “Còn người, còn vũ khí là còn trận địa”. Nếu rút thì địch sẽ giết hết. Vì có Nguyễn Văn Nhương quả cảm, gan dạ nên đại đội của ông luôn đứng vững và chiến thắng trước mưa bom, bão đạn của quân thù. 
 
 Ông kể lại: Ngày 22/1/1968, Đại đội súng máy 12,7 ly cùng một số phân đội DKZ và bộ binh áp sát sở chỉ huy của Lữ đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ, bao vay phá sân bay, cắt đứt đường tiếp tế hàng không của địch. Riêng khẩu đội do ông là xạ thủ số 1 nằm sát sân bay Tà Cơn, có nhiệm vụ bắn trực tiếp không cho địch tiếp tế quân lương. Bọn địch coi khẩu đội này là cái gai trong mắt, cần phải nhổ bỏ và chúng điên cuồng dùng B52, B57, xe tăng, xe bọc thép liên tục phản kích vào các trận địa của ta. Không hề nao núng, ông cùng đồng đội sử dụng các hỏa lực DKZ, cối 81, 82 đánh tan các cuộc phản kích của chúng. Tiếp tục cuộc hành quân bất tận của cả dân tộc, vào Nam chiến đấu cùng đơn vị, Nguyễn Văn Nhương luôn là người chiến sĩ đi tiên phong, sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy nhưng luôn trong tâm thế của một người lính chiến đấu. Tháng 8/1968 tham gia trận đánh Sở chỉ huy Chi khu Đăk Lập – Đăk Min (Đăk Lăk). Sở chỉ huy của địch được bảo vệ bởi đồn bốt, hàng rào dây thép gai… và đơn vị của ông có nhiệm vụ bắn vào trận địa hỏa lực, hỗ trợ cho bộ binh đánh địch phản kích, đồng thời bắn máy bay địch đổ quân chi viện cho chi khu. Khi đang chỉ huy chiến đấu, hầm sập, ông bị thương đến bất tỉnh phải đưa về tuyến sau cấp cứu nhưng đi được nửa đường, tỉnh lại ông ra lệnh cho đồng đội quay trở lại tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu. Kết thúc trận đánh, đơn vị của ông bắn rơi 5 máy bay, riêng ông bắn rơi 3 chiếc. Cuối năm 1968, ông chỉ huy đơn vị trực tiếp cho bộ binh tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn Không vận Mỹ ở Sóc Trăng diệt 70 xe cơ giới của Mỹ, sau đó tiến công tiêu diệt các tiểu đoàn quân Mỹ ở mặt trận Lộc Ninh. 
 
Năm 1970, đơn vị của ông được giao nhiệm vụ tham gia chiến dịch ở Đông Bắc Camphuchia, trong đó có trận đánh ở Đầm Be. Địch dùng xe tăng, máy bay, bộ binh và các loại  hỏa lực  hòng san bằng trận địa của ta, song ông đã linh hoạt sử dụng súng 12,7 ly cùng súng bộ binh, B40, lựu đạn để chiến đấu chống trả các đợt phản công của địch. Đặc biệt, khi xe tăng địch tiến gần, ông đã dũng cảm ôm mìn chống xe tăng bò ra khỏi hầm lăn vào xích xe tăng, làm cháy chiếc xe tăng chạy trước, sau đó quay trở lại hầm bình tĩnh sử dụng quả B40 cuối cùng bắn cháy tiếp chiếc xe tăng thứ 2, rồi sử dùng súng bộ binh, lựu đạn tiêu diệt bộ binh địch. Kết thúc chiến dịch phản công này, ông bắn rơi 2 máy bay, diệt 2 xe tăng và nhiều tên địch. Cuối năm 1972, ông được cử ra Bắc đào tạo cán bộ Chính trị ở Học viện trung – cao cấp Chính trị. Năm 1973, ông được điều động làm chính trị viên Tiểu đoàn 22 (Quân khu 4). Giữa năm 1977, vẫn trên cương vị chính trị viên Tiểu đoàn 22, ông được tăng cường vào Tây Nguyên.
 
Ông Nguyễn Văn Nhương đã được tặng thưởng 11 Huân chương Chiến công Giải phóng, 2 Huân chương Chiến sĩ Giải phóng, 5 Huy hiệu Chiến sĩ diệt máy bay; Huy hiệu Chiến sĩ diệt xe tăng; Huy hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ - Ngụy; Huy hiệu Chiến sĩ thi đua quyết thắng; 5 năm liền là Chiến sĩ thi đua cấp Trung đoàn và Sư đoàn; 2 lần được đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua anh hùng toàn miền Nam.
 
 Hơn 30 năm qua, cựu chiến binh Nguyễn Văn Nhương lặng lẽ, âm thầm sống và làm việc trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Ông đã kinh qua nhiều công việc ở địa phương nhưng bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong ông vẫn luôn tròn đầy, ấm nóng. 
 
 
                                                                        Nguyễn Văn Chiến
 
 
Ý kiến của bạn